SKĐS - Gút (gout) là một bệnh khớp gây ra bởi tăng acid uric máu và lắng đọng các tinh thể urat trong khớp gây các đợt viêm khớp cấp tính.
Gút (gout) là một bệnh khớp gây ra bởi tăng acid uric máu và lắng đọng các tinh thể urat trong khớp gây các đợt viêm khớp cấp tính. Cần chú ý rằng một số loại thuốc có thể gây bệnh gút thứ phát hay làm nặng thêm bệnh gút sẵn có.
Bệnh gút có những đặc điểm lâm sàng khá đặc biệt, tương đối dễ nhận biết, nếu được quan sát kỹ như: thường gặp ở nam giới tuổi 35-45 (trên 95%), khỏe mạnh, mập mạp. Viêm khớp cấp tính do gút nổi bật với các triệu chứng khởi bệnh đột ngột, diễn biến từng đợt, giữa các đợt đau các khớp hoàn toàn khỏi (những năm đầu). Vị trí bắt đầu thường là các khớp ở chi dưới, đặc biệt ngón cái bàn chân (70%). Cơn gút cấp gây sưng nóng đỏ đau dữ dội, khiến cho bệnh nhân đau đớn và không thể đi lại được bình thường. Trong giai đoạn cấp có thể kèm các dấu hiệu toàn thân như: sốt cao, lạnh run, đôi khi có dấu hiệu màng não (cổ cứng, nôn...).
Các thuốc làm gia tăng bệnh gút
Có tới 20 loại thuốc có thể gây nên bệnh gút thứ phát và 71 thuốc khác cũng bị nghi là thủ phạm gây gút thứ phát. Có thể kể ra một số thuốc điển hình như: Thuốc lợi tiểu: Bao gồm các thuốc nhóm thiazide ( bendroflumethiazide, chlorthalodone, hydrochlorothiazide...), nhóm tác dụng lên quai thận (ethacrynic acid, furosemide...), nhóm giữ K+ (amiloride, spironolactone, triamterene)...
Bệnh nhân bị các bệnh tim mạch như: suy tim, tăng huyết áp, bệnh thận (viêm cầu thận, suy thận)... thường hay phải dùng các thuốc lợi tiểu. Các thuốc lợi tiểu được chỉ định dùng trong điều trị phù do suy tim, xơ gan, suy thận cấp hay mạn tính, hội chứng thận hư... được dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc hạ huyết áp khác để điều trị tăng huyết áp. Tất cả các thuốc lợi tiểu (trừ spironolacton là không ảnh hưởng đến thải trừ acid uric) đều có khả năng làm tăng acid uric máu dẫn đến bệnh gút do làm giảm thải tiết acid uric qua ống thận. Các cơn gút cấp thường xảy ra sau nhiều năm dùng thuốc lợi tiểu, đặc biệt ở phụ nữ và người cao tuổi. Do vậy, khi nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân dùng lợi tiểu vượt quá 420μmol/l hay nếu có cơn gút cấp xảy ra thì cần phải giảm liều thuốc lợi tiểu nếu như tình trạng lâm sàng của bệnh nhân cho phép.
Aspirin: Là một dẫn xuất của acid salicylic, thuộc nhóm thuốc chống viêm non-steroid. Trước đây, aspirin được dùng rộng rãi trong điều trị viêm khớp, dù có nhiều tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như viêm, loét dạ dày tá tràng và xuất huyết tiêu hóa. Ngày nay, aspirin liều thấp lại được khuyến cáo sử dụng chống ngưng kết tập tiểu cầu, dự phòng các biến chứng tắc mạch do huyết khối và tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm. Tuy nhiên, dùng aspirin liều thấp (ít hơn 2g/ngày) cũng là nguyên nhân kinh điển của gút thứ phát, liều cao trên 2g/ngày lại tăng thải acid uric qua thận dẫn đến giảm acid uric máu.
Thuốc corticoid: Việc bệnh nhân tự điều trị bệnh gút bằng các thuốc chứa corticoid như prednisolon, dexamethason, triamcinolone... trở nên đáng báo động. Thậm chí người ta còn cho thuốc chứa corticoid vào trong các thuốc Đông y. Trên thực tế các thuốc chứa corticoid có thể làm giảm nhanh chóng các triệu chứng của bệnh khớp nhưng về lâu dài có thể gây ra rất nhiều tác dụng phụ như tăng huyết áp, đục thủy tinh thể, đái tháo đường và gút. Nguyên nhân gây gút của corticoid là do thuốc cạnh tranh thải tiết với acid uric ở ống thận, do vậy làm giảm bài tiết acid uric, khiến nồng độ acid uric tăng cao trong máu, quá ngưỡng hòa tan của acid uric trong máu, làm các tinh thể muối urat kết tủa trong khớp gây ra cơn gút cấp.
Thuốc chống lao là một trong các thủ phạm chính: Các phác đồ thuốc chống lao hiện nay thường phải kết hợp nhiều thuốc như streptomycin, rifampicin, isoniazid, ethambutol, pyrazinamid... Trong đó, ethambutol làm xuất hiện các các cơn gút cấp do làm giảm thải tiết acid uric niệu, pyrazinamid gây tăng cao acid uric, có thể khởi động cơn gút cấp sau vài tuần dùng thuốc.
Các thuốc khác: Ciclosporin có thể làm tăng acid uric trong 50% bệnh nhân. Ở những bệnh nhân được ghép thận hay ghép tim phải dùng ciclosporin thì các đợt gút cấp xuất hiện với tỷ lệ từ 5-30%. Bệnh gút thứ phát thường xuất hiện sau 18-24 tháng dùng thuốc. Một số thuốc có tiềm năng gây gút thứ phát như omeprazol, furosemid. Ngoài ra, các thuốc hóa trị điều trị ung thư, đặc biệt ung thư máu dòng tủy cũng làm gia tăng phá hủy tế bào, tăng sản xuất acid uric và do đó có thể gây nên cơn gút cấp tính.
Người bệnh cần lưu ý
Nếu biết rằng thuốc cũng có thể là nguyên nhân gây viêm khớp do gút thì ngừng thuốc có thể giải quyết được viêm khớp rất thuận lợi. Người bệnh gút cần tránh sử dụng các loại thuốc làm tăng acid uric máu nói trên, mà nên thông báo với bác sĩ điều trị để bác sĩ cho dùng các loại thuốc khác thay thế. Nếu bắt buộc phải sử dụng thì cần dùng liều tối thiểu, thời gian ngắn nhất có thể. Cần phải theo dõi chặt chẽ nồng độ acid uric máu và dự phòng tái phát cơn gút cấp bằng chế độ ăn uống, sinh hoạt cũng như dùng thuốc giảm tổng hợp acid uric máu.
Cần phân biệt chứng tăng acid uric và bệnh gút
Trong quá trình chuyển hóa của cơ thể, khi nguồn tạo ra acid uric nhiều nhưng thải ra ít làm cho acid uric bị giữ lại trong máu, sẽ lắng đọng trong các mô. Nơi acid uric thường lắng đọng nhất là các khớp và gây ra bệnh đặc trưng là gút. Ngoài ra, acid uric còn lắng ở tim gây bệnh tim mạch, lắng ở thận gây suy thận, lắng ở đường niệu gây sỏi thận. Tuy nhiên có những trường hợp, acid uric trong máu rất cao do nó được tạo ra nhiều mà thải ra ít thì người ta gọi là tăng acid uric máu chứ không gọi là bệnh gút.
Trên thực tế, rất nhiều người cho rằng cứ tăng acid uric máu là bệnh gút và dùng thuốc điều trị gút. Đây là quan niệm sai lầm vì chỉ coi là có bệnh gút khi tăng acid uric máu đi kèm với sự lắng đọng acid uric và gây tổn thương ở khớp hay những tổ chức khác. Ðiều trị những cơn viêm khớp do gút khác với điều trị tăng acid uric trong máu.
BS. Hùng Anh (Theo nguồn www.suckhoedoisong.vn) |